ẢNH HƯỞNG CỦA TỨ HÓA ĐỐI VỚI VẬN THẾ
Sự nổ tung của bầu tinh vân cổ đại (QNB chú: ám chỉ vụ nổ Bigbang) sinh ra vũ trụ trong 1 sát na, Thời Gian liền bắt đầu được tính toán, Thời Gian lại giống như một sợi dây dài vô tận đem chúng ta ngay tại giờ khắc này liên kết với tự cổ chí kim. Mặc dù nó chỉ có tiến tới chứ không bao giờ quay trởi lại, nhưng nó cũng khắc họa lại những hình bóng rõ nét gắn liền với thời gian. Khi bạn cảm nhận được sự tồn tại của sợi giây này thì bạn liền có thể nhận thức rõ ràng bản thân mình ở chỗ nào. Từ cổ chí kim cho dù xa xôi mà bàng bạc nhưng suy cho cùng thì cũng là sự lần lượt bước qua của Thời Gian, dọc theo cái đầu mối này, bạn liền có thể tìm ra sự phát triển của lịch sử. Thời Gian chính là gốc rễ của Lịch Sử, là khởi thủy của Sinh Mệnh, là quy luật vĩnh cửu (hằng thường) của ngàn đời. Mà sinh mệnh con người chẳng qua chỉ có năm tháng cuộc đời ngắn ngủi, có sinh mệnh thì mới có sự tồn tại của vận mệnh, sự biến hóa của vận mệnh chính là lấy đơn vị Tuổi tác để đo lường, hoặc lấy đơn vị Thời Gian của Lịch Pháp để đo lường.
Số Tuổi: Là độ dài ngắn của thời gian từ lúc bắt đầu cất tiếng khóc chào đời cho tới hôm nay (QNB chú: có lẽ ám chỉ ngày mà tác giả viết cuốn sách này, ngày 30 tháng 11 năm 1993), vừa khéo được 40 tuổi 3 tháng lẻ 10 ngày.
Xem thêm: QUẺ THỦY PHONG TỈNH
Thời Gian của Lịch Pháp: nếu như sinh ra vào ngày 20 tháng 8 năm 1952 năm, cho tới hôm nay (ngày 30 tháng 11 năm 1993) mới thôi, tổng cộng là 40 năm 3 tháng lẻ 10 ngày.
Hai khái niệm đó là không hề giống nhau, mệnh vận của con người là theo sự biến đổi của Số Tuổi mà thay đổi, còn Thời Gian của Lịch Pháp lại không hề bị thay đổi theo những yếu tố như sự chỉnh sửa Lịch Pháp, sự khác biệt về quy định quy ước của Lịch Pháp. Nếu như quy định quy ước của Lịch Pháp mà sai lầm thì tất nhiên toàn mệnh bàn đều sai lầm. Khi chúng ta đang lúc suy tính vận thế của Lưu Nguyệt, Lưu Niên, thì cái Năm – Tháng – Ngày mà các bạn nói đến ấy là dùng Thời Gian của Lịch Pháp để làm chuẩn hay là dùng Số Tuổi để làm chuẩn đây?
Thời Gian của Lịch Pháp và Số Tuổi sinh mệnh, giữa 2 cái này có mối quan hệ gì để hỗ trợ nhau trong việc tính toán sợi dây của Thời Gian? Hai khái niệm này lại cần dựa vào đầu mối liên kết chặt chẽ của loại quan hệ nào để khởi? Vì sao chúng ta chia thành các khoảng thời gian vận khí của Lưu Niên, Lưu Nguyệt, Lưu Nhật, ấy chính là lấy Thời Gian của Lịch Pháp để làm chuẩn ư?
* Khởi Dần thủ (Thiên Can cung Dần / theo phép Ngũ Hổ độn) nhất định chính là Thiên Can tháng Giêng của năm mà đương số được sinh ra đời. Cho nên Can của các cung sau khi an bài lá số (mệnh bàn) tương đồng với Thiên Can của các tháng trong năm Âm Lịch mà đương số được sinh ra. Lấy nó để mà suy đoán vận trình cát hung của Đại Hạn hoặc Lưu Niên hoặc Lưu Nguyệt, chứ không phải áp dụng Thiên Can của cái năm Lưu Niên đang xem đó. Rồi lại khởi Dần thủ để mà tìm ra Can mới của cung nhằm biểu diễn Tứ Hóa, đại diện cho suy luận mệnh bàn. Tất cả đều phải lấy Thiên Can năm sinh của đương số, cho nên Thiên Can Dần thủ (ngũ Hổ độn) chính là tiêu chuẩn cơ bản. Điều này biểu thị Số Tuổi của đương số cùng với Thời Gian của Lịch Pháp mượn phép Ngũ Hổ độn khởi Thiên Can cung Dần để mà khiến 2 khái niệm hợp lại làm một. Do đó, mệnh bàn khởi Dần thủ Thiên Can chính là một việc vô cùng trọng yếu, bởi vì Thiên Can của các cung, đại diện cho Thiên Can của mỗi tháng trong 12 tháng của năm mà đương số được sinh ra đời. Cho nên suy luận thời gian ứng nghiệm của sự việc, quyền quyết định là ở chỗ Thiên Can chứ không phải ở chỗ các Địa Chi.
Xem thêm: Tuần Triệt trong Tử Vi
[Thời gian Ứng nghiệm]: Phối hợp các tình huống hội hợp xung chiếu của Tứ Hóa ở trên mệnh bàn, từ Thiên Can của cung mà khởi phi Tứ Hóa, xác định ra cung vị Địa Chi của Lưu Niên ứng nghiệm.
Muốn phán đoán là lúc nào phát sinh, nhất định phải xem là cái Thiên Can 1 cung nào bị Hóa Kị xung tới để mà phán đoán thời kỳ ứng nghiệm, Thiên Can của cung khởi phi chính là “Thời Gian” ứng nghiệm.
Tại vì sao ở các chương trước đây có nhắc tới "Địa Chi" đại biểu cho "Thời Gian", thế này lại chẳng hóa ra là trước sau mâu thuẫn ư? Trước đây đã từng nói qua, Địa Chi dựa vào sự biến đổi của Thiên Can, bóng nắng mặt trời (nhật ảnh) mà có sự tăng giảm, nó chính là tuân theo sự thay đổi của Thiên Can di chuyển mà có sự biến đổi. Thiên Can là dựa vào sự thay đổi của quý tiết (mùa, thời kỳ), các địa phương khác nhau thì cũng có thể thay đổi khác nhau. Địa Chi thì sau khi trải qua sự xác định rõ, không hề còn sự biến đổi, cố định lại (bởi vì cổ nhân cho rằng mà Địa/Đất thì bất động, còn Thiên/Bầu Trời thì chuyển động xung quanh Địa vậy). Nó đối với tất cả mọi người là giống y như nhau, đối với mệnh bàn mà nói, thì nó chính là đại diện cho mỗi 1 ô vuông có tên gọi theo trình tự thuận chiều, trừ điều đó ra, trong khi đoán mệnh với vận thì nó chẳng có ảnh hưởng gì. Do nó là cố định nên phải dựa theo diễn biến Tứ Hóa của Thiên Can để mà định ra thời kỳ ứng nghiệm.
Còn như "Ứng nghiệm kỳ" là năm nào ư? Đương nhiên là lấy Địa Chi của chỗ Thiên can sở tại là năm ứng nghiệm, như: cung Dậu, thì Thiên Can của nó có khả năng là 5 Can âm gồm Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý; chứ chẳng phải là tất cả Can cung đều có thể phát sinh sự việc, mà mỗi một Thiên Can mang tính chất riêng khiến cho các Hóa tinh thay đổi, phát ra năng lượng hoặc cát hoặc hung mới có thể làm phát sinh sự kiện. Cũng không phải là cứ đến cung Dậu, chỉ cần thấy các sao tọa thủ giống nhau thì đều sẽ phát sinh sự kiện giống nhau, mà phải biết sẽ phát sinh hay không là mấu chốt nằm ở "Thiên Can". Cho nên "Thời gian của Ứng nghiệm" chính là lấy Thiên Can của cung nào đó trên lá số (mệnh bàn), kết hợp với Địa Chi của Lưu Niên mà tìm ra cái năm lưu niên ứng nghiệm sự kiện. Vì lẽ đó, dựa vào môi trường trung gian của Địa Chi, xâu chuỗi Thiên can, đem Thời gian Ứng nghiệm của sự kiện đời người và Thời gian Lịch pháp mà hợp lại làm một. Đó là lý do mà từ sự suy tính của mệnh bàn có thể biết được
Vì vậy, Tử Vi Đẩu Số áp dụng Lưu Niên mà không cần Tiểu Hạn, dựa vào sự kết hợp 12 Địa Chi trên mệnh bàn và Lưu Niên, khiến cho "Mệnh" cùng với "Thời" phối hợp. Mượn "Can" độn "Tinh" vay "Tượng" hợp "Chi" ứng "Thì". Còn như, ảnh tượng (hình ảnh) của sự việc và nguyên nhân của sự việc, thì lại từ: Sự trùng điệp cung vị và các hóa tinh tạo thành. Cũng chính là: có nguyên nhân và hình tượng, mới có thể miêu tả "Sự kiện" một cách cụ thể. Còn như, mối quan hệ giữa 2 yếu tố là nguyên nhân của sự kiện và hình tượng của sự việc, thì cũng không thể phân chia rành mạch thành hai yếu tố được, vì chúng đan xen lẫn nhau thành cặp.
Đối với việc vận dụng:
Hình tượng của Sự kiện: Từ mối quan hệ trùng điệp của cung vị, xác định ý nghĩa hình tượng của các Hóa tinh.
Nguyên nhân của Sự kiện: Từ mối quan hệ trùng điệp của cung vị & đường bay đến của các Hóa tinh, tìm ra nguyên nhân đối ứng.
Mối liên hệ cung vị trùng điệp, chính là lấy sự sảo hợp trong quan hệ của tam bàn Thiên Địa Nhân. Để định nghĩa các cung vị trùng điệp, cũng chính là: Mệnh gốc hóa cho Đại Hạn sử dụng, cho nên nếu cung Quan Lộc của Mệnh gốc khiến Hóa Quyền nhập vào cung Phu Thê, và nếu Đại Hạn lại vừa vặn đi tới cung Phu Thê thì biểu thị sự nắm giữ quyền uy trong sự nghiệp. Nếu người đã kết hôn, thì Đại Hạn này sẽ rất chăm chỉ trong công việc, cũng sẽ có thành tựu. Nhưng nếu chưa kết hôn, ý chí phấn đấu quyết liệt của Hóa Quyền sở chủ ý chí chiến đấu trùng kính, hùng tâm hăng hái hướng về phía trước gặt hái được các thành quả và cũng sẽ chịu chút thiệt thòi về tình cảm. Bởi vì chưa kết hôn, cung Phu Thê chính là gốc của Hư Vị, đây chính là nguyên tắc của cung vị Hư – Thực, mà các bạn đọc cần phải biết.
Xem thêm: KIẾM PHONG KIM 1992
Mối liên hệ của Thiên Địa Nhân bàn, cần phải phân tích các hạng mục:
1, Lá số gốc (bản Mệnh bàn) hóa cho Tứ Hóa của lá số Đại Hạn (Đại Hạn bàn), ở trong lá số của Đại Hạn thì hiển thị ra những loại quan hệ nào?
* Xung (sao Hóa Kị)
* Chiếu (sao Lộc, Quyền, Khoa)
* Hội (nhập)
* Hợp (tam hợp)
2. Lá số của Đại Hạn lại hóa cho Tứ Hóa của Lưu Niên dùng, xét các quan hệ dưới đây?
* Tam Hợp phương của lá số gốc (bản Mệnh bàn) có bị hoặc là Kị xung? hoặc là Kị nhập vào Mệnh gốc hay không?
* Tứ Hóa của lá số Đại Hạn và Tứ Hóa của lá số gốc, hiển thị ra loại quan hệ nào? Đặc biệt là sao Hóa Kị, có hiện ra sự đối xung hay không? Hoặc 2 ngôi Kị tinh đều vào trong cùng một cung?
3. Cung vị của lá số gốc & cung vị của lá số Đại Hạn hiển thị loại quan hệ nào?
Thí dụ như: Cung Tật Ách của lá số gốc chính là cung Tài Bạch của lá số Đại Hạn, 2 cái trùng điệp cùng một chỗ, đây chính là cung vị trùng điệp, đại biểu tiền bạc của Đại Hạn có mối quan hệ với Tật Ách của Mệnh gốc. Mức độ mật thiết của sự liên hệ này thì dùng Tứ Hóa để kết hợp, các mục 1, 2 đã nói ở trên chính là sự suy xét mức độ mật thiết của sự kết hợp. Nếu như Tứ Hóa đều "Nhập" thì đại biểu sự kết hợp chặt chẽ, biết rất chăm chỉ nỗ lực đi kiếm tiền. Nếu như là "Xung" thì biểu thị không còn cách nào kết hợp, bác bỏ lẫn nhau, chính là lười nhác không cố gắng đi kiếm tiền.
4. Thời gian Ứng nghiệm? Hoặc kỳ hạn Ứng nghiệm?
* Cung bị Xung phải chịu tổn hại lớn nhất, khi Lưu Niên đi qua cung bị Xung thì sẽ bị hung.
* Tam hợp Cục, lấy Quyền ở cung Quan Lộc của Lưu Niên là cát.
* Đồng loại không thể tương xung, như Tật Ách của Đại Hạn không thể xung Tật Ách của Mệnh gốc.
* Hóa nơi Mệnh gốc, ứng nghiệm ở Lưu Niên.
* Hóa nơi Đại Hạn, ứng nghiệm ở Lưu Nguyệt.
* Đại Hạn xung Mệnh gốc, 10 năm không thuận lợi.
* Lưu Niên Kị xung, 1 năm hối lận.
Cùng cái lý ấy:
* 3 sao Hóa cát của Đại Hạn hội vào tam hợp Mệnh gốc, 10 năm cát tường.
* 3 sao Hóa cát của Lưu Niên hội vào, 1 năm thuận lợi may mắn.
Nhận xét
Đăng nhận xét