Lễ Hội Nghinh Ông, Nghinh Cô
Hội Nghinh Ông, Nghinh Cô được coi là lễ hội nước lớn nhất của ngư dân Việt. hội này bắt đầu từ các tỉnh ven biển, từ Quảng Bình trở vào Nam.
Lễ hội Nghinh Ông
Nguồn gốc
Lễ hội có nguồn gốc từ lễ hội cầu ngư của ngư dân vùng biển. Nó gắn liền với tín ngưỡng dân gian và đền thờ Cá Ông. Lễ hội xuất hiện khoảng cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20. Đền thờ Cá Ông được triều Nguyễn sắc phong là “Nam Hải Đại Tướng Quân” do Nghinh Ông, Vạn Lăng Ông còn gọi là Vạn Lăng Nam Hải Đại Tướng Quân.
Theo truyền thuyết, tục thờ cá Ông được xuất phát từ tín ngưỡng của dân tộc Chăm: Vị thần tên là Cha-aih-va, vì quá nôn nóng trở về xứ sở sau thời gian khổ luyện phép thuật, đã cãi lại thầy của mình và tự ý biến thành cá Voi.
Truyền thuyết người Kinh kể rằng: Cá Voi do Phật Quan Âm Bồ Tát xé chiếc áo cà sa thành muôn mảnh thả trên mặt biển để cứu vớt chúng sinh đi biển bị lâm nạn.
Chính sử triều Nguyễn ghi lại: Khi Chúa Nguyễn Ánh bôn tẩu ngoài đảo Phú Quốc (Kiên Giang) bị bão lớn, thuyền sắp đắm. Ông đã cầu nguyện và được cứu thoát nạn. Sau khi phục quốc lên ngôi, vua Gia Long phong cho cá Voi là “Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Thượng Đẳng Thần.
Địa điểm, thời gian
Trải dài từ Quảng Bình vào Nam là các nghi lễ Nghinh Ông có ở Sông Đốc, Cần Giờ, Vũng Tàu, Cà Mau, Nam Hải, Phước Hải, Gành Hào, Bạc Liêu, Phú Quốc.
Những người dân vùng ven biển tôn vinh cá Ông (cá Voi) thành một vị thần rất đỗi thiêng liêng, là chỗ dựa tinh thần mỗi khi gặp sóng to gió lớn, thuyền bị đắm, con người bị hiểm nguy đe doạ.
Nghinh có nghĩa là “đón”, “Ông – cá voi”, bà con nghề biển xem là điểm tựa tinh thần mỗi lần ra khơi. Thời gian diễn ra từ 14 đến 16 tháng 2 Âm Lịch, có nơi tổ chức ngày 21/03 Âm Lịch
Xem thêm: Lập lá số Tử Vi
Nghi thức tổ chức Nghinh Ông
Lễ Nghinh Ông:
Các thuyền đánh cá làm nghề ở xa hay gần, đều phải tề tựu về bến. Sáng sớm. Sử dụng kiệu long đình trên có ngọc cốt của Ông. Ban tổ chức và Đoàn rước tiến ra cửa sông.
Xuống ghe lễ đã được trang hoàng cờ hoa rực rỡ - đây là ghe của gia chủ làm ăn phát đạt, không có vướng mắc những điều xấu.
Các lễ vật: Trên ghe có bàn thờ sắc thần và các lễ vật
Heo quay nguyên con nằm ngửa, bộ gan, lòng heo và các lễ vật khác,
1 trống cái để điều khiển các nghi lễ,
Sau ghe lễ là các ghe chở đoàn múa lân sư rồng và các ngư dân trong vạn.
Trên các ghe này đều bày biện bàn thờ với các lễ vật tương tự như ghe lễ.
Theo sau là hàng trăm chiếc tàu đánh cá của những ngư dân cùng nhân dân địa phương và du khách tham gia lễ hội.
Đoàn rước tiến về cửa biển cách vạn chài khoảng 2km thì dừng lại. Trên ghe, người đại diện đốt nhang đèn tiến hành lễ nghinh Ông, thỉnh mời ông Nam Hải, cầu cho mưa thuận gió hòa, ngư dân được mùa bội thu và xin keo. Khi xin keo thành công, theo lệnh của Chánh vạn, các tàu quay vào bờ. Đến bờ, đoàn nghi lễ diễu hành và hầu Ông về Lăng với các nghi thức rước trang trọng cùng nhạc lễ, múa lân và dâng lên Ông những sản vật mà ngư dân đã thu hoạch được.
Sau khi thực hiện nghi thức Nghinh Ông, Ban Tế lễ sẽ thực hiện nghi thức tại miếu Bà Thiên Hậu để thỉnh Bà về dự lễ tế Ông.
Lễ cúng tế tiên sư và cúng tế tiền vãng: để mời các vị thần đến chứng lễ. Ca ngợi công đức của thần, sau đó tỏ lòng tri ân của dân làng và cầu xin thần bảo hộ cho thôn dân được yên vui thịnh vượng.
Lễ chánh tế: tổ chức vào ban ngày, đầu giờ chiều, khác với các nơi khác được tổ chức vào nửa đêm, giao giữa ngày cũ và mới. Sự thay đổi này trong những năm gần đây tạo điều kiện cho các cư dân cùng tham dự lễ hội.
Lễ vật dâng cúng: Heo, lợn giết thịt để nguyên con, chứng tỏ con vật còn tươi sống.
Nghi thức này còn gọi là lễ tĩnh sinh, chỉ có ở một số đình thờ tướng quân Nguyễn Phục. Đó là vị thần phù hộ người đi biển. Có lẽ trong ký ức dân gian của những ngư dân vùng ven biển vẫn còn lưu giữ tục này nên đã đồng nhất và cụ thể hóa ý nghĩa của nó trong lễ thức cúng cá Ông.
Nghi thức và nghệ thuật trình diễn trong lễ hội
Xây chầu có nguồn gốc từ quan niệm dịch lý của Nho gia: “Thuận đạo trời, an đạo đất, hòa đạo người” (tam tài). Quan niệm này đã được dân gian hóa thành những lời ca cầu cho mưa thuận gió hòa, dân làng an khang thịnh vượng.
Sau nghi lễ này là các vở diễn được dân vạn chài ưa thích như: Tiết Đinh San cầu Phàn Lê Huê, Xử án Bàng Quý Phi, Phụng Nghi Đình, San Hậu thành. San Hậu thành được diễn vào đêm cuối của lễ hội.
Xem thêm: Xem Tử Vi online
Lễ hội Nghinh Cô (Bà Rịa - Vũng Tàu)
Lễ hội Nghinh Cô nằm trong hệ thống lễ hội thờ Mẫu, nữ thần tiêu biểu của ngư dân Bà Rịa - Vũng Tàu. Nhưng đây không đơn thuần chỉ thờ nữ thần mà là sự kết hợp của lễ hội Cầu Ngư với tục thờ cúng Thần Biển (Bà Thủy Long, cá voi của người Chăm) và tín ngưỡng thờ Mẫu - nữ thần của cư dân địa phương.
Dinh Cô thuộc thị trấn Long Hải, Bà Rịa - Vũng Tàu. Đây là một trong những lễ hội lớn nhất của ngư dân ven biển Nam Bộ. Lễ hội diễn ra ở Dinh Cô, dưới mỏm núi Thùy Vân thuộc ấp Hải Sơn, thị trấn Long Hải, huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Kiến trúc Dinh Cô
Người dân địa phương thường gọi đây là lễ hội Dinh Cô. Dinh Cô trước còn gọi là miếu thờ Bà Cô được xây dựng và trùng tu khoảng năm 1930. Diện tích khoảng 1000m2. Bên trong thờ tượng Bà Cô cao khoảng 0,5m mặc áo choàng đỏ, đội mão gắn hột màu trắng.
Bên cạnh Bà Cô, người ta còn thờ các vị thần thánh khác như: Diêu Trì Phật Mẫu, Chúa Cậu hay Nhị vị công tử (cậu Tài, cậu Quý con Bà Chúa Ngọc), Ngũ Hành nương nương, Tứ Pháp nương nương, Ông Địa, Thần Tài... Ngoài ra, còn các miếu nhỏ xung quanh thờ Cửu Thiên Huyền nữ, Chúa Ngọc nương nương, Chúa Tiên nương nương, Quán Thế Âm bồ tát, Hỏa Tinh Thánh mẫu, Quan Thánh Đế quân,…
Tất cả các đối tượng thờ tự này có nguồn gốc khá đa dạng, đại diện cho nhiều dòng văn hóa khácnhau của các dân tộc Việt, Hoa, Chăm,… Các đối tượng phối tự này nằm xung quanh của trục trung tâm là “Bà Cô” một Nữ thần địa phương.
Nguồn gốc
Dinh Cô với lễ hội Nghinh Cô ở Long Hải gắn liền với những truyền thuyết dân gian thu hút sự hiếu kỳ của nhiều người.
Truyền thuyết kể rằng, có một cô gái tên là Lê Thị Hồng, quê Phan Rang. Bà là con gái duy nhất của ông Lê Văn Khương và bà Thạch Thị Hà. Một lần theo cha vào Nam buôn bán, cô bị nạn trên biển. Sau 3 ngày tìm kiếm không thấy con gái, người cha buồn bã quay về quê nhà. Vài hôm sau, người ta thấy xác cô trôi dạt vào Hòn Hang. Ngư dân Phước Hải chôn cất cô trên đồi cát gần nơi tìm thấy xác đó là mộ Cô bây giờ.
Trong một lần khi dịch bệnh đang hoành hành trong làng. Có người nằm mơ thấy Cô báo mộng về chỉ cách giúp dân làng vượt qua khỏi dịch khí. Dân làng thấy vậy liền thắp hương cầu khấn Cô. Quả nhiên dịch bệnh qua khỏi. Sau sự việc ấy, bà con địa phương đã xây am thờ phụng Cô, cầu mong Cô độ trì cho dân làng làm ăn phát đạt cuộc sống an lành.
Thời gian hội Nghinh Cô
Hàng năm lễ hội được ngư dân Long Hải tổ chức long trọng. Từ 10 đến 12 tháng 2 âm lịch là ngày giỗ Cô theo phong tục truyền thống ở địa phương. Vào ngày lễ, Dinh Cô trang hoàng rực rỡ, trang nghiêm, chăng đèn kết hoa.
Nghi thức Nghinh Cô
Các nhà trong vạn ghe đều đặt bàn hương, trên có nhang đèn, bánh trái, mâm xôi... Ban đêm có treo đèn lồng. Các tàu thuyền của ngư phủ đều đậu ở bến, mỗi chiếc đều reo đèn giấy nhiều màu, kết hoa từ mũi đến lái, kể cả cột buồm. Những chiếc thuyền ghe từ các làng cá như Long Hải, Phước Hải, Phước Tỉnh, Vũng Tàu và một số thuyền ghe từ miền Trung vào đều trở nên lộng lẫy.
Vì thế, ban đêm ở đây hiện ra cảnh nhộn nhịp huy hoàng của đêm hội hoa đăng. Thuyền ghe nào ở đây cũng hướng mũi vào trước Dinh Cô để thực hiện nghi thức "Chầu Cô".
Ngày đầu tiên 10/2 Âm Lịch: Ban quý tế và ngư dân đã tề tựu về Dinh Cô để chuẩn bị cho lễ Nghinh Cô.
7g 10.2 Âm Lịch, lễ Nghinh Bà Lớn (Thủy Long thần nữ) và Ông Nam Hải (tức cá Voi) từ dinh Ông Nam Hải về Dinh Cô. Đoàn rước có Ban tế lễ, học trò lễ, ban nhạc lễ, 12 bạn chèo (trang phục áo đỏ, nẹp vàng, nón lá vàng, tay cầm chèo), đội lân... với hai long đình (một ngôi Nghinh Bà lớn còn một ngôi Nghinh Ông) và cầm cờ ngũ hành.
Ngày đầu tiên cúng Tiền hiền, Hậu hiền và tụng niệm cầu quốc thái dân an được tổ chức dưới sự điều khiển của vị Trưởng bái, có sự tham gia của các nhà sư Phật giáo đến tụng kinh cầu an cầu mong làng xóm yên vui, mọi người khoẻ mạnh, nghề nghiệp thuận lợi, làm ăn phát đạt…
Ngày thứ hai 11/2 Âm Lịch: là phần hội thi chèo thúng và bơi lội. Buổi tối cúng Tiên thường, các nhà sư Phật giáo chủ trì tụng kinh cầu an.
Ngày thứ ba, 12/2 Âm Lịch Chính hội
Ngay từ buổi sáng ngư dân đã tổ chức lễ Nghinh Cô (ngoài biển) về Dinh để nhập điện. Ghe Nghinh Cô được chuẩn bị kỹ lưỡng, trang hoàng rự rỡ. Đoàn ghe Nghinh Cô gồm hàng trăm chiếc, 2 ghe chính và 6 ghe hộ tống.
Ở hai ghe chính có bày bài vị hương án và cúng phẩm. Lễ vật dâng Cô và Thần Thánh trong các lễ cúng gồm:
Thịt heo sống để nguyên con
Lợn quay
Xôi, chè, các thứ đồ xào, hoa quả,…
Trên hai ghe chính có chủ tế, ban nhạc lễ, 12 lễ sinh và 12 bạn chèo.
7g đoàn ghe Nghinh Cô bắt đầu khơi hành, tiến thẳng ra khơi. Khi cách bờ hơn chừng 1km, thì dừng lại. Lúc ấy nghi lễ được bắt đầu. Chủ tế niệm hương, ban nhạc lễ và lễ sinh xướng. Sau khi niệm hương xong, đoàn ghe tiếp tục diễu hành một vòng lớn trên biển, đi qua miếu Bà Thủy Long rồi trở về bãi biển phía Tây, cách Dinh Cô chừng trăm mét. Đi rước bài vị, hương án Nghinh Cô về an vị tại Dinh.
Từ 8 -10g, lễ tế chính thức theo truyền thống Nam Bộ với lễ vật chính là heo quay cúng Bà Thủy Long, heo toàn sinh (thịt sống) cúng ông Nam Hải và các đồ chay cúng Bà Cô.
Một nghi thức khác xuất hiện trong lễ hội Nghinh Cô là lễ phóng sinh. Người ta mua chim để trong lồng và tổ chức thả chim ra, tương tự việc phóng sinh vào các ngày rằm hay mồng một.
Kết luận
Hội Nghinh Ông thường gắn với tập tục làm ăn sinh sống của những người đi biển, mang ý nghĩa đề cao nghề nghiệp, và tính giải trí. Trong khi đó, xây chầu, đại bội, tôn vương lại có tính chất lễ nghi được nghệ thuật hóa. Cho nên các đào thài và người cầm chầu phải thực hiện rất cẩn trọng. Trong thực tế, những thủ tục này đã được giản lược đi, nhưng không phải thế mà mất đi tính quy phạm - linh thiêng của nó.
Lễ Nghinh Cô chính là sự hội tụ, ngưng đọng của nhiều dòng, nhiều nét đẹp văn hóa và hương vị riêng của mọi miền. Và trong khoảnh khắc của không khí lễ hội thiêng liêng và tin cẩn này, người dự hội có cảm giác khoảng cách giữa thần linh và đời sống dân dã dường như không còn nữa. Chính sự quy mô và thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham dự lễ hội Nghinh Cô đã tạo ra một diện mạo và tác động tích cực đối với lễ hội khác ở địa phương và trong vùng
Nhận xét
Đăng nhận xét